Bài Thơ Hoàng Hạc Lâu Nói Về Gì

Bài Thơ Hoàng Hạc Lâu Nói Về Gì

Những sứ thần Việt Nam làm thơ về lầu Hoàng Hạc

Phân tích bài thơ 'Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đến Quảng Lăng' - mẫu 13

Thi pháp trong bài thơ 'Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đến Quảng Lăng' nổi bật với hai khía cạnh chính: cái nhìn nghệ thuật về con người và sự tinh tế trong ngôn từ. Trong thơ Đường, thiên nhiên và con người thường hòa quyện với nhau, con người lấy thiên nhiên làm cảm hứng để diễn tả cảm xúc và tình yêu đối với cảnh vật. Hồ Chí Minh đã nêu rõ điều này trong bài viết 'Khán 'Thiên gia thi' hữu cảm':

Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ,Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong

Thơ cổ thường yêu cảnh thiên nhiên đẹp,/ Núi, nước, khói, hoa, tuyết, trăng, gió

Bài thơ của Lý Bạch cũng miêu tả thiên nhiên, nhưng có sự độc đáo và khác biệt so với thơ Đường chung. Trong bài thơ, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên không hòa hợp mà là một khoảng cách rộng lớn. Không gian thiên nhiên trong bài thơ không chỉ là địa danh cụ thể như lầu Hoàng Hạc, Dương Châu, sông Trường Giang, mà còn mở rộng ra thành mảng không gian mênh mông, không giới hạn, hòa vào trời đất.

Trên nền không gian rộng lớn đó, con người trở nên nhỏ bé và mờ nhạt, đặc biệt là hình ảnh Mạnh Hạo Nhiên ra đi từ lầu Hoàng Hạc. Sự mờ dần của con người vào không gian vô tận thể hiện cái nhìn nghệ thuật độc đáo của Lý Bạch, nơi con người trở nên mong manh giữa sự bao la của vũ trụ. Tình cảm của nhà thơ đối với bạn, cùng sự lo lắng, được kéo dài và mở rộng đến mức không thể diễn tả hết bằng ngôn từ cụ thể. Trong một bài thơ khác, Lý Bạch cũng khẳng định tình bạn vượt qua giới hạn của thiên nhiên:

Đào Hoa đàm thủy thâm thiên xíchBất cập Uông Luân tống ngã tình

(Đào Hoa đầm nước sâu nghìn thước/ Không bằng tình bạn Uông Luân khi tiễn ta).

Ngôn từ trong bài thơ 'Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đến Quảng Lăng' không chỉ miêu tả mà còn gợi mở, tạo nên một bức tranh rộng lớn và sâu thẳm. Ngôn từ tạo ra một không gian không thể bị gò bó, với sự hoành tráng của không gian và sự sâu lắng của tình cảm:

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.Cô phàm viễn ảnh bích không tận,Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.

Bạn cũ từ biệt tại lầu Hoàng Hạc,Giữa mùa hoa khói, xuống Dương Châu.Bóng buồm đơn lẻ mất hút,Chỉ thấy sông Trường Giang chảy mãi bên trời.

Hệ thống ngôn từ trong bài thơ phản ánh lộ trình của người đi và sự dõi theo của người tiễn. Điểm độc đáo là ngôn từ bắt đầu với địa danh cụ thể như lầu Hoàng Hạc, rồi chuyển sang Dương Châu, tháng ba. Trong câu thơ thứ hai, hình ảnh rõ ràng dần mờ nhạt bởi mùa hoa khói, và cuối cùng, hình ảnh người ra đi mất hút vào không gian xanh biếc vô tận, hòa vào sông Trường Giang chảy vào trời.

Ngôn từ chuyển từ cái cụ thể sang cái mơ hồ, phản ánh tình cảm sâu lắng của tác giả. Không gian rộng lớn, mờ ảo, với sự tách biệt của con người và thiên nhiên, gợi lên triết lý về sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ rộng lớn và tình cảm thương nhớ sâu sắc của tác giả. Thơ Đường thường dùng gợi để tạo cảm xúc, và bài thơ này đạt đến đỉnh cao của sự gợi mở đó.

Lý Bạch thể hiện nỗi nhớ bạn sâu đậm trong bài thơ bất tử 'Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đến Quảng Lăng'. Dù là một bài thơ về con người, thiên nhiên vẫn chiếm ưu thế, khiến con người trở nên nhỏ bé và mờ nhạt giữa vẻ đẹp rộng lớn của thiên nhiên:

Bạn từ lầu Hoàng Hạc ra đi,Giữa mùa hoa khói, Dương Châu trôi xuôi.Bóng buồm đã khuất trong không gian,Trông theo chỉ thấy sông dài bên trời.

Hệ thống ngôn từ phản ánh hành trình của người ra đi và sự dõi theo của người tiễn. Ngôn từ bắt đầu từ địa danh cụ thể như lầu Hoàng Hạc, chuyển sang Dương Châu, tháng ba, và dần mờ nhạt vào không gian xanh biếc, tạo nên một bức tranh đầy cảm xúc và triết lý về sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên vĩ đại.

Bài phân tích thơ 'Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đến Quảng Lăng' - mẫu 9

Lí Bạch, nhà thơ vĩ đại của Trung Hoa, đã để lại một di sản văn học phong phú với nhiều tác phẩm sâu sắc về nội dung và nghệ thuật. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ 'Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng'.

Bài thơ này thể hiện sâu sắc tình bạn chân thành giữa Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên. Bối cảnh là cuộc chia ly tại lầu Hoàng Hạc, nơi Lí Bạch tiễn bạn đi đến miền đất mới. Mở đầu bài thơ, Lí Bạch tái hiện cảnh chia ly và thể hiện xúc cảm sâu lắng của mình:

Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”

(Bạn cũ từ biệt tại lầu Hoàng Hạc, hướng về phía Tây

Tháng ba hoa khói, xuôi dòng đến Dương Châu)

Hai câu đầu miêu tả cảnh chia ly một cách chân thật và cảm động. Ngôn từ giản dị nhưng gợi cảm giác sâu lắng, thể hiện nỗi buồn và sự lưu luyến của Lí Bạch trước sự ra đi của bạn mình.

Cụm từ “bạn cũ” thể hiện sự gắn bó sâu đậm, còn “mùa hoa khói” tượng trưng cho không gian chia ly, mang đến cảm giác buồn bã.

Hai câu thơ sau là linh hồn của bài thơ, miêu tả cảnh nhà thơ tiễn bạn cho đến khi cánh buồm khuất dạng trên dòng Trường Giang:

“Cô phàm viễn ảnh bích không tận

Duy kiến Trường Giang Thiên tế lưu”

Chỉ còn thấy dòng Trường Giang chảy mãi bên trời)

Nhìn cánh buồm khuất dần, ta cảm nhận được tình cảm sâu sắc và sự quý trọng của người ở lại. Cánh buồm đơn độc trên nền trời rộng lớn phản ánh tâm trạng lưu luyến của nhà thơ.

Bài thơ không chỉ là một tác phẩm về tình bạn mà còn thể hiện tài năng nghệ thuật của Lí Bạch. Mặc dù viết về sự chia ly, Lí Bạch vẫn giữ được tâm hồn phóng khoáng và tình yêu thiên nhiên trong từng câu chữ.

Phân tích bài thơ 'Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng' - mẫu 1

Lí Bạch (701-762) là một trong ba nhà thơ vĩ đại thời Đường, được mệnh danh là 'Thi tiên' với hơn một nghìn bài thơ xuất sắc. Là một thi sĩ và kiếm khách, ông coi nhẹ danh lợi, yêu thích du ngoạn và tìm kiếm đạo tiên. Những bài thơ của ông thường chứa đựng trăng, rượu, hoa, cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, tình bạn tri kỉ, tình yêu quê hương và khát vọng tự do. Dù đã làm quan ba năm ở Tràng An, ông vẫn từ bỏ công danh để tiếp tục hành trình thơ ca. Những tác phẩm như 'Vọng Lư Sơn bộc bố', 'Hành lộ nan', 'Tĩnh dạ tư', 'Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng', 'Tảo phát Bạch Đế thành' đều thể hiện vẻ đẹp của tâm hồn thi sĩ này.

Bài thơ 'Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng' ghi lại khoảnh khắc cảm động khi Lí Bạch tiễn bạn Mạnh Hạo Nhiên đi về Quảng Lăng, thể hiện nỗi lưu luyến và thương nhớ. Lầu Hoàng Hạc, nơi Lí Bạch tiễn bạn, thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc, gắn liền với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên. Mạnh Hạo Nhiên (689-740) là một nhà thơ nổi tiếng và là bạn tri âm của Lí Bạch. Hai chữ 'Cố nhân' trong câu thơ đầu phản ánh mối quan hệ sâu sắc giữa hai nhà thơ:

'Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu'(Bạn từ lầu Hoàng Hạc lên đường)

Câu thơ dịch rất hay, nhưng chữ 'tây' chưa làm rõ hướng đi của bạn, và chữ 'bạn' không lột tả hết ý nghĩa của 'cố nhân'. Trong thơ cổ, từ 'cố nhân' thường gợi nhiều tình cảm sâu sắc:

'Dạng chu tầm thuỷ tiệnNhân phỏng cố nhân cư'(Thuật dòng đủng đỉnh thuyền bơiCố nhân gần đó, qua chơi thăm nhà)

Câu hai phát triển ý từ câu đầu, mô tả thời gian và điểm đến của bạn: Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào tháng ba, mùa hoa khói, đến Dương Châu - đô thị nổi tiếng thời Đường:

'Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu'(Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng)

Chữ 'há' được dịch thành 'xuôi dòng' tạo sự hấp dẫn cho bài thơ. 'Yên hoa' là ẩn dụ phổ biến trong thơ Đường. Câu thơ không chỉ xác định thời gian và không gian mà còn diễn tả nỗi niềm của người ở lại. Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm, biểu thị nỗi nhớ thương, chia ly của đôi bạn tri âm. Một bản dịch khác cũng rất thú vị:

'Bạn từ lầu Hạc ra điDương Châu Hoa khói giữa kỳ tháng ba'(Nhữ Thành)

Trong hai câu thơ mở đầu, yếu tố tự sự chỉ là bề nổi; nỗi lòng thầm kín mới là tầng sâu. Hoàng Hạc Lâu không chỉ là nơi ly biệt mà còn là điểm nối giữa các câu thơ. Lí Bạch đã sử dụng thành công thủ pháp không gian 'cận - viễn' để tạo nên một tác phẩm hoàn hảo.

Hai câu cuối là linh hồn của bài thơ, thể hiện tình cảm sâu sắc của Lí Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. Cánh buồm nhỏ bé, xa dần, mất hút vào bầu trời xanh, là hình ảnh biểu thị tình cảm lưu luyến. Dòng sông càng rộng, chiếc thuyền càng nhỏ dần, mang đi tình bạn của Lí Bạch. Lí Bạch đã mượn thiên nhiên để diễn tả nỗi buồn chia ly, giữ được phong cách phóng khoáng và sự hùng vĩ của thiên nhiên.

'Cô phàm viễn ảnh bích không tậnDuy kiến Trường Giang thiên tế lưu'(Bóng buồm đã khuất bầu khôngTrông theo chỉ thấy dòng sông bên trời).

Cái tâm cảnh của Lí Bạch được diễn tả bằng hai chữ 'duy kiến' - chỉ nhìn thấy. Lí Bạch sống trong thời Thịnh Đường, nơi kinh tế phát triển và đô thị sầm uất. Trong muôn ngàn cánh buồm, Lí Bạch chỉ nhìn thấy chiếc 'cô phàm' của bạn, thể hiện tình bạn tri âm sâu sắc.

Mặc dù chưa dịch hết hai chữ 'cô' và 'bích', Ngô Tất Tố đã lột tả được 'điệu Đường' và 'hồn Đường' của nguyên tác, thể hiện nỗi buồn và sự lưu luyến của Lí Bạch. Bài thơ là một tuyệt tác của thơ thất ngôn tứ tuyệt, phản ánh tâm hồn và tình bạn đẹp của Lí Bạch, cũng như của những tao nhân mặc khách thời Đường.